Chúng ta biết rằng hồ thủy sinh là một hệ sinh thái khép kín. Trong hệ sinh thái khép kín này có nhiều loại động vât thủy sinh sinh sống kể cả những loại vi khuẩn gây hại. Mỗi ngày chúng ăn và thải ra nhiều chất thải. Chất thải này nếu chúng ta không sử lý triệt để hay sử lý không đúng cách sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và hệ sinh thái trong hồ.

Để
sử lý những chất thải này, chúng ta thường hay làm là thay nước cũng
là 1 biện pháp để giảm thiểu lượng chất thải. Nhưng thay nước nhiều hay
thường xuyên cũng không phải việc làm có lợi cho hồ thuỷ sinh (việc thay
nước chỉ nên thay mỗi tuần 1 - 2 lần). Để đạt được hiệu quả cao trong
việc sử lý chất thải trong hồ thủy sinh, lọc nước sẽ đóng vai trò này
1. Dùng
máy lọc cho việc lọc nước trong hồ và máy lọc cũng nhiều hình dạng khác
nhau cũng như về nguyên lý hoạt động. Loại máy lọc thường gặp là:
Lọc
treo (Overhang fillter) Lọc đáy (lọc nền) dùng sỏi đáy trong hồ làm vật
liệu lọc ,Lọc ngoài (Canister or External fillter) đặt ở ngoài hồ
Cây
thủy sinh sẽ nhả ra Oxy mà thủy sinh vật cần và làm sạch nước "tự
nhiên" bằng cách hấp thu chất độc hại như Ammonia và Nitrogen mà thủy
sinh vật thải ra. Đó là lý do tôi luôn luôn nói "Nếu cây thủy sinh trong
hồ khỏe thì cá, tép đương nhiên cũng sẽ khỏe (ngoại trừ cá mới mang về
hoặc cá đã có mầm bệnh)".
Nhưng ngoài hệ thống lọc, chúng ta cũng nên nghĩ đến những yếu tố cơ bản của cây thủy sinh: Nước, Ánh sángCO2 (carbon dioxide).
Cây thủy sinh sống và tồn tại dựa vào nước. Cây thủy sinh thực thụ mà chúng
ta trồng có thể sống trong môi trường nước nghèo nàn dinh dưỡng. Khi
nước trở nên giàu dinh dưỡng, rêu tảo sẽ thừa cơ hội hấp thu dinh dưỡng
và phát triển nhanh hơn cây thủy sinh. Sẽ dẫn đến mất cân bằng sinh thái
trong hồ
Nếu
lọc nước của chúng ta có dung tích nhỏ, đương nhiên tỷ lệ thuận với số
lượng nước được lọc sẽ ít theo và không thể loại trừ hay ngăn cản rêu
tảo ra khỏi hồ. Ngoài ra cá, tép trong hồ sẽ bị bệnh nếu lọc nước không
được làm vệ sinh thường xuyên. Nếu lọc tốt, hệ vi sinh trong lọc sẽ loại
trừ hay khống chế mầm bệnh (gây bệnh cho cá tép) và rêu tảo không tồn
tại được.
Tiếp
theo, yếu tố ánh sáng, Lọc treo hay lọc trên hồ sẽ làm giảm hay ngăn
cản nguồn ánh sáng mà cây thủy sinh rất cần. Hồ thủy sinh, ánh sáng phải
được phân bổ đều khắp hồ và không bị che khuất.
Cuối
cùng, xét về vấn đề CO2. Máy lọc có khả năng làm thông khí hay đánh
tan khí vào nước, đó là nguyên do làm cho CO2 bị thất thoát. Giống như
khi chúng ta lắc lon “COCA”. Sau đó mở nắp lon " Bụp " tất cả CO2 trong
lon sẽ bay ra vào không khí, COCA sẽ trở nên nhạt tẻ.
Lọc
nước chuyên dùng cho hồ cá là yếu tố đầu tiên liên quan trực tiếp đến
cá, tép, phải tạo ra Ôxy thay thế CO2. Còn hồ nuôi trồng cây thủy sinh
thì không thể dùng lọc nước làm phân tán CO2 hay tạo ra sự chuyển động
hoặc làm cho nước tiếp xúc trực tiếp với khí.
Máy lọc mà đáp ứng được cho cả 3 hình thức (làm sạch nước, không che nguồn ánh sáng, không làm CO2 tan trong không khí ) là 1 trong những thiết kế đặc biệt để cây thủy sinh phát triển : Máy lọc ngòai (external, canister power filter) rất mạnh, mình không nên lắp đặt đầu ống dạng phun tia (spray bar). Ống nước ra phải cho nó thấp hơn mặt nước và hãy quên việc sử dụng - lắp đặt đầu ống phun tia
2.Phương
pháp dùng sỏi từ lớp nền bên dưới làm lọc đáy sẽ có 1 vài ảnh hưởng.
Đầu tiên, lớp phân nền (trộn với sỏi) bên dưới không thể sử dụng được,
thứ 2 khi sử dụng 1 thời gian cát bắt đầu hết tác dụng trong việc lọc,
cuối cùng, khi cây lớn lên, rễ cây sẽ ngăn dòng chảy của nước thông qua
lớp nền bên dưới. Tuy nhiên phương pháp này lại tốt cho hồ thủy sinh
giai đoạn đầu khi chúng ta mới set up. Nó sẽ đem Oxy trong nước trực
tiếp đến rễ cây và làm cho nhiệt độ (đã chênh lệch) giữa nền và nước
bằng nhau. Mặc dù có sự phát triển tốt hơn trong thời gian đầu, nhưng
trên thực tế hệ thống lọc đáy, sau 1 thời gian, sẽ làm nảy sinh các vấn
đề đã đề cập chúng tôi nêu ở trên. Chắc chắn nguyên lý này không ứng
dụng cho người trồng cây thủy sinh muốn thay đổi bố cục thường xuyên.
3.Nguyên lý lọc có thể phân ra được 2 lọai:
- Lọc hóa học, Lọc sinh học
Quá
trình lọc sinh học: Lọc hóa học dùng than họat tính hay zeolite để loại
Ammonia & Nitrogen ra khỏi nước. Còn lọc tự nhiên hay sinh học thì
dùng vi khuẩn để phân hủy Ammonia & Nitrogen và chuyển hóa thành
Nitrates ít độc hại hơn (với thực vật thuỷ sinh) qua quá trình Oxy hóa.
Cả 2 phương pháp này đều có lợi điểm và cùng được sử dụng cho hồ cá và
cây thủy sinh.
Khi
mới set up hồ cho đến lúc vi khuẩn đã phát triển tối đa trong vật liệu
lọc, quá trình lọc hóa học với than họat tính có thể làm giảm vi khuẩn.
Nhưng nếu chỉ dùng than họat tính bỏ vào trong hộp lọc của máy, nó sẽ
giữ lại nhiều mẩu cặn thải lớn. Sau 1 thời gian các cặn thải của lớp
than hoạt tính này sẽ trở thành thức ăn cho vi khuẩn (nitrobacteria),
chuẩn bị vào quá trình lọc sinh học 100%. Than họat tính sẽ tự mất khả
năng lọc của nó trong 1 hoặc 2 tuần, thay vào đó hệ vi sinh bám trên
than hoạt tính sẽ phát triển tốt hơn và đảm nhận Vai trò lọc sinh học:
Việc xác định thời gian chuyển đổi từ lọc hóa học sang lọc sinh học rất
quan trọng. Không nên chuyển từ lọc với than hoạt tính sang lọc sinh học
trong thời gian quá ngắn. Vì hệ vi sinh (nitrobacteria) bám trên than
và các vật liệu lọc khác chưa phát triển đủ mạnh để đảm nhận trọng trách
lọc sinh học trong thời gian đầu. Nếu điều này xảy ra chúng ta (lấy
than hoạt tính ra khỏi lọc) sẽ có sự mất cân bằng về sinh thái, cá sẽ
bắt đầu chết và rêu tảo bắt đầu phát triển. Do đó, than hoạt tính có thể
tiếp tục được sử dụng như là vật liệu lọc cho quá trình lọc sinh học.
Mặc
dù là 1 vật liệu lọc rất tốt và cần thiết để làm sạch môi trường nước
nhưng than hoạt tính có 1 nhược điểm là hay làm cho lọc bị tắc sau 1
thời gian. Vì vậy nó thường được thay thế bằng các vật liệu lọc khác
cũng tốt cho sự phát triển của con vi khuẩn. Việc thay vật liệu lọc
không quá khó, việc quyết định thời gian khi nào cần thay mới khó. Tóm
lại, than họat tính nên được thay thế ngay sau lần thứ nhất hay thứ hai
lọc bị tắc
- Quá trình lọc sinh học
Thật
sự không cường điệu chút nào khi nói rằng môi trường hồ thủy sinh phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình lọc sinh học. Khi hệ vi sinh phát triển
thịnh vượng, nước sẽ sạch và không có rêu tảo
Phản
ứng hóa học ( thông qua quá trình oxy hóa ) bởi vi khuẩn đã chuyển hóa
Ammonia từ dạng độc hại sang không độc hại: ammonia (NH3) > Nitriet
(NO2), Nitrate (NO3). Vi khuẩn chuyển NH3 thành NO2 được gọi là
Nitrosomonas và NO3 là Nitrobacter. Nghiên cứu cho thấy rằng việc duy
trì nitrate sẽ ít độc hai hơn nitrite khỏang 70 lần. Nhưng nếu tích luỹ
nhiều trong nước nó cũng trở thành độc hại. Do đó, chúng ta cần phải
luôn thay nước thường xuyên ngay cả khi vẫn dùng máy lọc nước. Máy lọc
nước có khả năng loại bỏ nitrates có thể xuất hiện trong thế kỷ sau
Để
quyết định độ Nitrate và Nitrite trong nước có 2 cách tính: dùng dụng
cụ đo chuyên dụng và phương pháp hóa học. Cách thứ 2 sẽ tốt hơn nhưng đó
có thể không thuận tiện về chi phí. Tốt nhất để biết được độ nitrates
mình có thể đánh gía từ độ pH. Khi nitrates tăng độ pH sẽ giảm, và nước
nếu có nitrites cao sẽ có pH cao. Nếu độ pH 5.0 nó cho thấy độ nitrate
cao.
Độ
pH bị ảnh hưởng bởi 2 yếu tố. Yếu tố thứ nhất là nitrates còn gọi là
acid. Yếu tố thứ 2 khi vi khuẩn bị oxy hóa chúng sẽ hấp thu Oxygen và
thải ra Co2. Tương tự ,mức độ ô nhiễm ở sông cũng được biểu hiện như một
biểu đồ gọi là B.O.D(như cầu sinh hóa học - Oxygenbiochemical oxygen
demand). Điều này cho thấy rằng có bao nhiêu Oxygen được sử dụng bởi vi
khuẩn, do đó nó là cũng vật chỉ thị mức độ chất thải hữu cơ trên sông.
Như vậy là các bạn đã có những thông tin nhất định về Lọc nước cho hồ thủy sinh. Chúc các bạn tìm thấy những kiến thức hay khác tại thuysinhnghethuat.com
Như vậy là các bạn đã có những thông tin nhất định về Lọc nước cho hồ thủy sinh. Chúc các bạn tìm thấy những kiến thức hay khác tại thuysinhnghethuat.com